Sửa đổi An Nam/đang phát triển
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
− | |||
'''An Nam''' ([[Hán văn]] : 安南) là một [[Quốc danh Việt Nam|quốc danh Việt Nam]] cũ. | '''An Nam''' ([[Hán văn]] : 安南) là một [[Quốc danh Việt Nam|quốc danh Việt Nam]] cũ. | ||
==Lịch sử== | ==Lịch sử== | ||
− | + | Theo cổ sử, danh xưng ''An Nam'' xuất hiện vào năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi ''Giao Châu tổng quản phủ'' (từ 622) thành ''An Nam đô hộ phủ'' (安南都護府). Về mặt pháp lý, địa danh này tương ứng các cơ quan An Bắc (nay thuộc Bắc Bộ [[CHND Trung Hoa]]), An Đông (nay thuộc [[bán đảo Cao Ly]]), An Tây (nay thuộc Tây Bộ [[CHND Trung Hoa]]). | |
− | |||
− | Theo cổ sử, | ||
Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, ''An Nam'' là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình [[Việt Nam]] với triều đình [[Trung Hoa]], trong khi người [[Cao Ly]], [[Nhật Bản]] và muộn hơn là người [[Âu châu]] thường gọi ''Giao Chỉ''. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người [[Việt Nam]] thường xưng ''An Nam quốc'' (安南國) hoặc ''Nam quốc'' khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình [[Trung Hoa]] chấp thuận danh xưng ''An Nam quốc'' nhưng vẫn gọi phiếm ''Nam bang'' hoặc ''Giao Chỉ quốc'', từ triều Mạc vì viện cớ [[Mạc Thái Tổ]] tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống ''An Nam đô thống sứ ti'' (安南都統使司). | Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, ''An Nam'' là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình [[Việt Nam]] với triều đình [[Trung Hoa]], trong khi người [[Cao Ly]], [[Nhật Bản]] và muộn hơn là người [[Âu châu]] thường gọi ''Giao Chỉ''. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người [[Việt Nam]] thường xưng ''An Nam quốc'' (安南國) hoặc ''Nam quốc'' khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình [[Trung Hoa]] chấp thuận danh xưng ''An Nam quốc'' nhưng vẫn gọi phiếm ''Nam bang'' hoặc ''Giao Chỉ quốc'', từ triều Mạc vì viện cớ [[Mạc Thái Tổ]] tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống ''An Nam đô thống sứ ti'' (安南都統使司). | ||
Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn ''Đại Việt'' làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế [[Nguyễn Thánh Tổ]] mới ban đạo dụ nhất quán gọi ''Đại Nam quốc'', tuy nhiên danh xưng ''An Nam'' vẫn không dứt. | Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn ''Đại Việt'' làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế [[Nguyễn Thánh Tổ]] mới ban đạo dụ nhất quán gọi ''Đại Nam quốc'', tuy nhiên danh xưng ''An Nam'' vẫn không dứt. | ||
− | + | * Theo ''[[Việt điện u linh tập]]'', ''[[Lĩnh Nam chích quái]]'', ''[[Đại Việt sử kí toàn thư]]'', từ thời vua [[Lê Hoàn]] đã lưu truyền bài thất ngôn tứ tuyệt có câu "''Nam quốc sơn hà Nam đế cư''" (南國山河南帝居), mà theo giáo sư [[Nguyễn Tài Cẩn]] và nghiên cứu gia [[Nguyễn Hùng Vĩ]] là để giáo hóa trong quân ngũ<ref>[http://www.khoavanhoc.edu.vn/index.php/nghiencuukhoahoc/cong-trinh-khoa-hc/hannom/891-nguyn-hung-v94 Cần dịch lại bài ''Nam quốc sơn hà'']</ref>. | |
− | |||
− | |||
− | * Theo ''[[Việt điện u linh tập]]'', ''[[Lĩnh Nam | ||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
==Văn hóa== | ==Văn hóa== | ||
− | Ở hậu kì hiện đại, có chừng hai [[thập niên]] trong dư luận chung [[Việt Nam]] phản đối danh xưng này, coi là sự miệt thị nền độc lập tự chủ của nước [[ | + | Ở hậu kì hiện đại, có chừng hai [[thập niên]] trong dư luận chung [[Việt Nam]] phản đối danh xưng này, coi là sự miệt thị nền độc lập tự chủ của nước [[Việt Nam]]<ref>[https://1thegioi.vn/xin-dung-tu-goi-nuoc-minh-la-an-nam-17194.html Xin đừng tự gọi nước mình là An Nam]</ref><ref>[https://plo.vn/van-hoa/cong-chua-annam-ten-goi-miet-thi-dan-toc-viet-54968.html Công chúa Annam - tên gọi miệt thị dân tộc Việt]</ref>. Tuy nhiên, theo khảo cứu của tác giả [[Trần Quang Đức]], ''An Nam'' không thuần túy là lối gọi mà còn có nội hàm văn hiến phức tạp, nhưng trước hết, có một thời gian dài [[người Việt Nam]] nói chung - đặc biệt hàng ngũ trí thức tinh anh - coi là niềm hãnh diện khi giao thiệp với ngoại nhân. Vì thế, hiện tượng số đông bài xích chữ ''An Nam'' cũng là biểu hiện đứt gãy về mặt ý thức hệ giữa tiền nhân (vốn trọng Nho học cũng như Hán học) và lớp người sau này (những người không còn điều kiện tiếp xúc văn hóa [[Hán tự]]). |
− | + | Triều Đường phát triển rực rỡ trong 3 thế kỉ, gây ảnh hưởng tích cực đối với các khu vực lân cận. Cho nên, khi triều đại này đổ và vùng lõi [[Hán quyển]] bị các bộ lạc được coi kém văn minh thống trị, trong hàng ngũ Nho gia và cả chính giới có sự luyến tiếc. Không chỉ tại [[Việt Nam]], mà [[bán đảo Cao Ly]] và [[Nhật Bản]] vẫn trân trọng bảo lưu di sản triều Đường bằng mọi cách. Trong các văn kiện bang giao, triều đình [[Cao Ly]] thường xưng Đông quốc, đồng thời triều đình Việt cũng xưng ''Nam quốc'' hoặc ''An Nam quốc'' để tỏ rõ sự đủ chính thống thừa kế văn minh [[Trung Hoa]] so với các triều đình mới lập tại vùng lõi [[Hán quyển]] vốn xuất thân kém hơn. | |
− | Theo các văn bản [[Hán Nôm]] hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng ''Trung Hoa'', ''Trung Quốc'', ''Trung Châu'', ''Trung Hạ'', ''Hoa Hạ'', tự coi ''Hán nhân'', nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi [[Hán quyển]] ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị | + | Theo các văn bản [[Hán Nôm]] hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng ''Trung Hoa'', ''Trung Quốc'', ''Trung Châu'', ''Trung Hạ'', ''Hoa Hạ'', tự coi ''Hán nhân'', nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi [[Hán quyển]] ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị lược bỏ hoặc cải biên cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm. |
− | + | {{cquote|''Năm 1836, vua Minh Mạng cho sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Nam Campuchia vào đế quốc Đại Nam, đặt làm thành Trấn Tây. Sau đó xuống chỉ dụ cho các tướng tiến hành chính sách đồng hóa: Đất mọi từ lâu đã thuộc bản đồ của ta, dân mọi cũng là con đỏ của ta. Nên mở mang dẫn dắt, khiến chúng nhuốm gội phong tục Hán. Cho phép các ngươi vào những lúc nhàn hạ… chỉ bảo khai hóa dân ấy. Phàm hết thảy nhu yếu thông thường đều phải học tập dân Hán, chăm chỉ làm ăn. Đến như ngôn ngữ thì khiến chúng dần học tập tiếng Hán. Ăn uống, trang phục cũng khiến chúng dần theo tục Hán. Ngoài ra, vẫn có những thứ nên thay đổi sự hủ lậu mà giản tiện dễ làm, cũng tùy nghi chỉ bảo. Lượng tình chúng tuy man mọi, nhưng cũng có khả năng hiểu biết. Riêng việc dần đổi phong tục, phải nên từ từ dạy bảo… Tùy theo thứ tự trước sau mà làm, khiến chúng không hay không biết, thuận theo phép tắc đế vương, hun đúc nhuốm gội, dùng văn minh Hoa Hạ thay đổi thói tục Man Di, ấy cũng là một trong những đường lối sửa đổi phong tục. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 11)''<br>''Trong các sách vở thời Nguyễn, người Việt đều được gọi là Hán nhân (người Hán), Hán dân (dân Hán). Và như đã thấy trên, cái thứ ngôn ngữ bao gồm cả tiếng nói nôm na bình dân cho đến chữ viết quan phương bác học đều được gọi chung là tiếng Hán. Cũng chính vua Minh Mạng từng chuẩn y cho Bộ Công đặt tên chữ Hán cho các từ nôm na như gỗ lim được gọi thành thiết mộc, quả loòng boong được gọi thành quả nam trân, lỗ châu mai được đổi thành bác môn, than đá được gọi thành kiên thán… vì cho rằng cách nói nôm na thô thiển. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 29).''|||[[Trần Quang Đức]]}} | |
− | {{cquote|''Năm 1836, vua Minh Mạng cho sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Nam Campuchia vào đế quốc Đại Nam, đặt làm thành Trấn Tây. Sau đó xuống chỉ dụ cho các tướng tiến hành chính sách đồng hóa : | + | ==Xem thêm== |
+ | * [[Quốc danh Việt Nam]] | ||
+ | * [[Hán quyển]] | ||
==Tham khảo== | ==Tham khảo== | ||
− | + | <references/> | |
− | |||
− | |||
− | |||
===Tài liệu=== | ===Tài liệu=== | ||
* [[Trần Quang Đức]], ''Áo xiêm chưa đổi hết, sách vở còn nguyên sao ?'', [[Hà Nội]], 2016. | * [[Trần Quang Đức]], ''Áo xiêm chưa đổi hết, sách vở còn nguyên sao ?'', [[Hà Nội]], 2016. | ||
* [[Trần Quang Đức]], ''Hán - Việt'', [[Hà Nội]], 2016. | * [[Trần Quang Đức]], ''Hán - Việt'', [[Hà Nội]], 2016. | ||
* [[Trần Quang Đức]], ''Hán nô ?'', [[Hà Nội]], 2016. | * [[Trần Quang Đức]], ''Hán nô ?'', [[Hà Nội]], 2016. | ||
− | |||
===Tư liệu=== | ===Tư liệu=== | ||
* [http://www.atabook.com/nguon-goc-tu-ngu/an-nam-la-gi-nguon-goc-ten-goi-an-nam-va-annamite-an-nam-mit Nguồn gốc quốc danh An Nam] | * [http://www.atabook.com/nguon-goc-tu-ngu/an-nam-la-gi-nguon-goc-ten-goi-an-nam-va-annamite-an-nam-mit Nguồn gốc quốc danh An Nam] | ||
− | + | [[Thể loại:Lịch sử Việt Nam]] | |
− | [[Thể loại: |